Giải thích ý nghĩa 10 Đại hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát
Phổ Hiền Bồ Tát là một vị Bồ Tát thuộc Phật giáo đại thừa. Theo dịch nghĩa chi tiết, “Phổ” có ý nghĩa phổ biến, “Hiền” có nghĩa là đẳng giác. Phổ Hiền Bồ Tát được dịch là một vị Bồ Tát với năng lực hiện thân khắp 10 phương pháp giới và tùy thuộc vào sự minh cầu của chúng sinh mà Bồ Tát sẽ hiện thân để độ hóa cho chúng sinh.
Ngài với hình tượng cưỡi trên con voi trắng 6 ngà, Voi trắng tượng trưng cho trí tuệ vượt chướng ngại, 6 ngà tượng trưng cho sự chiến thắng sáu căn (6 giác quan: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý).
Theo Kinh Hoa Nghiêm, Bồ Tát Phổ Hiền dạy rằng: nếu ai muốn trọn nên công đức của Phật, thời phải tu mười điều hạnh nguyện rộng lớn như sau:
Một là thành tâm kính lễ các đức Phật.
Hai là khen ngợi, tán thán Như Lai.
Ba là thực hành hạnh cúng dường rộng rãi.
Bốn là ăn năn chừa bỏ các nghiệp chướng.
Năm là vui theo các công đức.
Sáu là thỉnh Phật thuyết pháp.
Bảy là thỉnh Phật trụ ở thế gian.
Tám là thường tu học theo lời Phật dạy.
Chín là luôn luôn tùy thuận lợi ích chúng sinh.
Mười là hồi hướng công đức khắp tất cả pháp giới.
Sau đây chúng ta sẽ đi phân tích chi tiết từng hạnh nguyện của ngài Phổ Hiền Bồ Tát.
1.Lễ kính chư Phật
Kính lễ Chư Phật nghĩa là kính lễ tất cả chư Phật ba đời quá khứ, hiện tại và tương lai. Đức Phật Thích Ca đã dạy: “Tất cả chúng sinh đều sẽ thành Phật”. Nghĩa là bất cứ chúng sinh nào, bất cứ người nào trên thế gian này, không phân biệt hình tướng, không phân biệt tôn giáo, không phân biệt chủng tộc, không phân biệt sang hèn, không phân biệt địa vị, không phân biệt nam nữ, không phân biệt tuổi tác, không phân biệt học thức, không phân biệt xuất xứ, không phân biệt gì hết, mọi người đều có Phật tính đồng như nhau, chỉ vì mê ngộ không đồng, nghiệp chướng khác nhau, cho nên hình tướng bên ngoài có khác.
Nhưng do vô minh, vọng tưởng nên chúng ta chưa nhận thấy mình cũng như mọi người xung quanh chính là vị Phật trong tương lai. Do vô minh mà con người chấp chặt cái hình tướng bên ngoài cho nên phân biệt tốt xấu, phải trái, đúng sai, không hiểu được ngoài các thân xác ra, chính mình có Phật tánh, không hiểu được mọi người đều có Phật tánh như nhau. Do đó phiền não khởi lên, cuộc đời chìm đắm trong các sự tranh chấp, hơn thua, kiện tụng, đấu tranh, giành giật, phê phán, chỉ trích, chiếm đoạt. Nếu thực sự hiểu được mọi người đều bình đẳng, đều có Phật tính như nhau, thì con người không dám xúc phạm lẫn nhau, dù bằng hành động, lời nói hay ý nghĩ, huống chi là âm mưu hại nhau, Con người tạo nghiệp mà không hay, không biết! Hoặc biết mà vẫn cố phạm!
Cho nên mỗi chúng ta bên cạnh lễ Phật thì mỗi người phải kính lễ, tôn trọng nhau. Các Phật tử gặp nhau, đến chùa khởi tâm cung kính, tôn trọng nhau, chuyển hạnh của mình đến với tất cả mọi người, đến bạn, đến hàng xóm, đồng nghiệp của mình. Đi đến đâu mình cũng lòng tôn kính, tôn trọng với tất cả dù là người ăn xin hay trẻ nhỏ thì mình đều khởi tâm khiêm hạ, cung kính. Đó là chúng ta học hạnh của Đức Phổ Hiền Bồ Tát, thực hành theo nguyện thứ nhất hằng ngày thì tương lai, chúng ta tạo không biết bao nhiêu phúc báu, tránh được biết bao nhiêu phiền não khổ đau, từ đó chúng ta sống trong sự cảm thông, tương kính, cho nên cuộc đời của chúng ta sẽ được an lạc và hạnh phúc, không nghi, dù chúng ta đang sống ở bất cứ nơi đâu, trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Như Vậy, lễ kính chư Phật còn có thể hiểu trong ngôn ngữ hiện đại là TÔN TRỌNG THA NHÂN
2. Xưng tán Như Lai
Nghĩa là chúng ta luôn luôn xưng dương, tán thán, ca tụng, ngợi khen công đức của chư Phật đã thành, với mục đích tự nhắc nhở mình noi gương chư Phật, trong cuộc sống hằng ngày, giữ gìn ba nghiệp thân khẩu ý được thanh tịnh, chứ không phải chúng ta ca ngợi chư Phật để được ban phúc, để được may mắn, để được như ý. Chư Phật mười phương không cần chúng ta tán tụng như vậy đâu! Chúng ta kính lễ chư Phật không phải chỉ ca tụng chư Phật, mà cần phải noi gương, học và hành theo hạnh của chư Phật. Sách có câu: "Tôn sùng các bậc vĩ nhân, không phải chỉ ca tụng họ, mà cần noi gương họ".
Khi nghe hoặc thấy một người lâm nạn đau khổ, chúng ta liền khởi tâm từ bi thương xót. Ðó chính là xưng tán Như Lai. Nhưng đến khi nhận biết kẻ lâm nạn là người đã từng hãm hại mình, là người mình không ưa, thì chúng ta liền khởi tâm khoái chí. Ðó chính là phỉ báng Như Lai.
Xưng tán Như Lai còn có nghĩa là chúng ta tự nhắc nhở chính mình, ai ai cũng có đức tính giác ngộ, sáng suốt, thanh tịnh và hòa bình, tự nhắc nhở chính mình nên sống một cuộc đời tỉnh thức, không để vọng tâm chi phối, không để tâm tham điều khiển, không để tâm sân xui khiến, không để tâm si thúc đẩy, làm những chuyện lợi mình hại người, vì quyền lợi nhỏ nhen của mình và người thân của mình làm thiệt hại, gây đau khổ cho người khác và gia đình họ, dù cho người đó là kẻ thù cũng vậy.
Xưng tán Như Lai không có nghĩa là chúng ta chỉ lo chuyện xây chùa to, dựng tượng lớn, đọc các bài tán thán chư Phật trong các thời khóa tụng kinh, làm thơ ca ngợi công đức chư Phật, tổ chức hành hương thập tự, tham dự các khóa tu học, các khóa hành thiền.
Trong các kinh, đức Phật thường hay khen ngợi “hay thay, hay thay” với đệ tử của Ngài. Ban tặng lời khen chân thành không giả dối xu nịnh cho tha nhân là giúp họ PHÁT TRIỂN LÒNG TỰ TIN. Không có lòng tự tin thì làm sao một người dám bước lên hành trình chuyển hoá chính mình. Cha mẹ mà khen ngợi con cái thì con cái sẽ tiếp tục làm những việc tốt. Thầy Tổ mà khen ngợi đệ tử thì đệ tử sẽ nỗ lực tu học. Lãnh đạo mà khen ngợi nhân viên là giúp cho nhân viên thấy được điểm mạnh của mình...Khen ngợi giúp cho người phát hiện được chân như Phật tánh tiềm ẩn trong họ. Khen ngợi người cũng giúp ta bỏ tâm kiêu căng, coi mình là nhất. Được khen ngợi, tha nhân có lòng tự tin hăng say làm việc Đạo. Đó chính là xưng tán Như Lai.
3. Quảng tu Cúng dường
Quảng là rộng lớn, quảng tu cúng dường nghĩa là phát nguyện cúng dường rộng lớn, không ích kỷ, hẹp hòi, so đo, tính toán.
Đối với chư Phật mười phương, chúng ta phát tâm hiểu biết, tin tưởng sâu sắc, thành tâm dâng cúng những điều tốt đẹp, những thành tựu cao quý nhất trên bước đường tu học. Khi viếng chùa, về phần sự tướng, chúng ta thường dâng cúng các phẩm vật cụ thể như: hương, đăng, hoa, quả, tượng trưng cho những nghĩa lý cao thượng, những yếu tố tâm linh siêu thoát.
Ðể tâm trí được thanh tịnh, chúng ta hãy làm các điều thiện, quảng tu cúng dường, vì chính những ích lợi của các điều thiện ấy, chứ không phải vì quyền lợi cá nhân, vì quyền lợi bản thân. Chúng ta có thể dễ chán những niềm vui mà chúng ta nhận được, nhưng chẳng bao giờ chán những niềm vui mà chúng ta cho. Ðó là ích lợi sâu xa của sự bố thí cúng dường của những người thiện tâm.
Tuy nhiên, trong các thứ cúng dường, pháp cúng dường là hơn hết. Pháp cúng dường là: tu hành đúng theo lời Phật dạy, làm lợi ích cho chúng sinh, chịu khổ thế cho chúng sinh, nhiếp thọ chúng sinh, siêng năng tu tập các điều lành, tránh các điều dữ, phát tâm bồ đề. Pháp cúng dường là sự cúng dường rộng lớn hơn tất cả, được vô lượng vô biên công đức
sao vậy? Bởi vì các đức Như Lai tôn trọng Chính Pháp, theo đúng Chính Pháp mà tu hành, theo đúng lời chư Phật dạy thì sinh ra các Ðức HẠNH. Ðó mới chính là mục đích cứu kính của đạo Phật, chỉ dạy phương pháp, giúp đỡ con người, chuyển hóa thành Phật, chứ không phải chỉ có những hình thức cúng kiến lễ lạy mà thôi. Thực hành được như vậy mới gọi là quảng tu cúng dường.
4. Sám hối Nghiệp chướng
Từ vô lượng kiếp về quá khứ, do lòng tham lam, giận tức, si mê, khiến cho thân khẩu ý tạo vô lượng vô biên nghiệp xấu ác, nghiệp bất thiện. Ngày nay chúng ta đem ba nghiệp thanh tịnh thành tâm sám hối, nguyện về sau không tái phạm nữa.
Trong kinh sách có bài kệ sau đây:
Con xưa đã tạo bao ác nghiệp
Đều bởi vô thỉ tham sân si
Từ thân, miệng, ý mà sanh ra
Tất cả con nay xin sám hối.
Từ xưa đến giờ, chúng ta tạo tác không biết bao nhiêu là nghiệp xấu ác, nghiệp bất thiện, đều do tâm tham sân si, có từ vô thủy, phát xuất ra hành động, lời nói hay ý nghĩ, làm lợi mình hại người, gây đau khổ cho người khác. Tất cả hôm nay chúng ta đều thành tâm, ăn năn sám hối, nguyện chừa bỏ, không tái phạm.
Trong Kinh Hoa Nghiêm, Ðức Phật có dạy: "Nhất thiết duy tâm tạo". Nghĩa là mọi sự mọi việc trong khắp mười phương pháp giới đều do tâm tạo ra tất cả. Công đức cũng do tâm tạo, nghiệp chướng cũng bởi tại tâm. Ðó chính là vọng tâm, lăng xăng lộn xộn, sinh diệt thay đổi luôn luôn, thường do tham sân si chi phối, thúc đẩy, điều khiển, cho nên chúng ta thường tạo nghiệp xấu ác nhiều hơn là nghiệp thiện.
Con người dù xấu ác đến cỡ nào, nhưng nếu biết thành tâm sám hối, đều có cơ hội trở thành người thánh thiện.
Chúng ta nên biết rằng nền tảng của hạnh phúc chính là sự bình yên của tâm hồn. An lạc và hạnh phúc là điều mong ước của tất cả mọi người trên thế gian này. Muốn được như vậy, trong đời sống hằng ngày, chúng ta hãy luôn luôn tha thứ cho người khác, dù là kẻ thù cũng vậy. Làm được như vậy, gọi là sám hối nghiệp chướng tức là CHUYỂN HÓA được NGHIỆP XẤU
5. Tùy hỷ Công đức
Từ lúc phát tâm bồ đề, vì muốn cầu đạo giải thoát, chúng ta siêng tu cội phúc căn lành, trải qua vô số kiếp, làm tất cả những hạnh khó làm, thấy người khác tu tâm dưỡng tánh, làm bao nhiêu công đức, chúng ta đều phát tâm tùy hỷ. Người tu tập các nghiệp thiện lành như bố thí, cúng dường, giúp đỡ người gặp khó khăn, nghèo đói, hoạn nạn, góp phần ấn tống kinh sách, đúc chuông, tạo tượng, xây chùa, trường học, bệnh viện, tu tâm dưỡng tính, tụng kinh, niệm Phật, thiền quán, trì chú, giảng kinh, thuyết pháp, được bao nhiêu công đức và phúc đức, thì người tu hạnh tùy hỷ cũng được bấy nhiêu công đức và phúc đức. Tại sao vậy?
Bởi vì người tu hạnh tùy hỷ công đức là người đã và đang dẹp được rất nhiều các vọng tâm ganh tị, đố kỵ, nghi ngờ, tham lam, bỏn xẻn, ích kỷ, bon chen, mới có thể thấy người khác làm các việc thiện, việc lành mà vui theo. Như vậy người tu tập các công đức lành và người tu hạnh tùy hỷ công đức, được kết quả như nhau, không khác. Cũng ví như người có cây đuốc cháy sáng, người khác đem cây đuốc của họ đến mồi, cây đuốc của họ cũng được cháy sáng như vậy, không khác, mà cây đuốc của người kia không bị giảm bớt chút ánh sáng nào cả vậy.
Người tu hạnh tùy hỷ công đức là người luôn luôn nở nụ cười nhẹ nhàng, thanh thản trên gương mặt, tâm trí khinh an, từ bi tâm rộng lớn, là người nhìn đời với cặp mắt hoan hỷ khi thấy những người khác thành tựu các công đức, dễ gần gũi thầy tốt bạn lành. Làm được như vậy gọi là Tùy hỷ công đức
6. Thỉnh chuyển Pháp Luân
Bánh xe Phật Pháp lần đầu tiên được Đức Phật Thích Ca “ vận chuyển ” tại vườn Lộc Uyển, do ngài thuyết pháp cho 5 anh em Kiều-Trần-Như và bánh xe pháp “lăn” đến tận ngày nay.
Học theo hạnh của Đức Phổ Hiền Bồ Tát là chúng ta thỉnh quý Thầy giảng Pháp để bánh xe Pháp được tiếp tục lăn chuyển. Người biết thỉnh pháp thì công đức của người ấy vô cùng lớn. Một bài Pháp được thuyết giảng thì không những chúng ta mà hết thảy quỷ thần vô hình, vô tướng họ đều nghe, được khai tâm mở trí, được những điều tốt lành. Cho nên việc thỉnh pháp vô cùng quan trọng.
Thỉnh chuyển pháp luân còn có nghĩa là thỉnh Phật tính chính mình chứng minh cho các hành động, lời nói và ý nghĩ của chúng ta hợp với Chính Pháp. Thỉnh chư Phật từ phương xa đến chuyển pháp luân, nói cách khác là chuyển bánh xe pháp hay thuyết pháp, thực là muôn vàn khó khăn. Còn Phật tính thì luôn luôn có sẵn với chúng ta, mỗi hành động, lời nói hay ý nghĩ đều hợp với Chính Pháp, với lời dạy của chư Phật mười phương, chính là thỉnh Phật chuyển pháp luân rồi.
Nếu khi ngồi yên một mình, người nào thực tâm tu học, muốn thoát ly phiền não của cuộc đời, thường suy nghĩ về những lỗi lầm, những sai trái của chính mình trong mọi hành động, lời nói hay ý nghĩ. Còn trong lúc nói chuyện, đàm luận với người, không bao giờ đề cập đến sự sai trái, khuyết điểm, lỗi lầm hay tội lỗi của người khác, trong quá khứ cũng như hiện tại. Do đó, chúng ta nên biết rằng những cách cư xử đẹp trên đời không phải là việc vô ích, mà là kết quả của một bản tính cao thượng, thanh nhã và một tinh thần chính trực, ngay thẳng, chí công, vô tư. Làm Ðược như vậy, cũng có nghĩa là chúng ta thỉnh Phật chuyển pháp luân rồi.
7. Thỉnh Phật trụ thế
Trong thập phương tam thế khắp pháp giới, có vô số Ðức Phật, chúng ta đều thành tâm đem thân khẩu ý, dùng tất cả những phương tiện ân cần thỉnh mời tất cả chư Phật ở lại thế gian, vì muốn tất cả chúng sinh được lợi lạc. Chúng ta không tốt được với kẻ thù, thì chưa thực sự tốt hoàn toàn. Chúng ta chưa nhận ra sự bình đẳng giữa các chúng sinh, giữa mình với người, tức là chúng ta chưa thỉnh Phật trụ thế, Phật tính của chúng ta còn bị che lấp bởi phiền não và khổ đau của cuộc đời.
Muốn thỉnh Phật trụ thế, còn có nghĩa là muốn Phật tính của chúng ta hiển lộ, chúng ta không nên làm bất cứ điều gì, không nên nói bất cứ điều gì, không nên nghĩ bất cứ điều gì nhằm mục đích hạ thấp người khác. Nhờ đó, chúng ta có thể thỉnh Phật tính của tất cả những người chung quanh trụ thế. Cuộc đời giữa những người cư xử với nhau bằng chân tâm, Phật tính chắc chắn sẽ an lạc và hạnh phúc, không nghi, không còn phải mong đợi cảnh giới cực lạc nào khác, ngoài thế gian này nữa cả.
8. Thường tùy Phật học
Trong thập phương tam thế khắp pháp giới, có vô số Ðức Phật, chúng ta đều thành tâm đem thân khẩu ý, dùng tất cả những phương tiện ân cần nương theo tất cả chư Phật, học tập, thực hành các hạnh tinh tấn, không biếng trễ, thực hành các hạnh khó làm, ở trong đạo tràng, cũng như ở khắp mọi nơi.
Trong đạo Phật, chư Phật và chư Tổ mười phương cũng từng giảng dạy những pháp môn tu học trong tam tạng kinh điển, để giúp chúng sinh thoát ly khỏi luân hồi, khỏi trầm luân sinh tử, đạt được cứu cánh niết bàn. Do đó chúng ta cần nên gần gũi các bậc thầy lành bạn tốt để học hỏi đạo lý, không ai có thể tự mình trở thành Phật mà không cần tu học theo đúng Chính Pháp, theo lời chư Phật dạy, cũng như người đi đường cần có bản đồ, có địa bàn, có hướng dẫn, có hỏi thăm mới có thể đến nơi đến chốn như ý muốn được.
9. Hằng thuận Chúng sinh
Trong khắp pháp giới, mười phương ba đời, bao nhiêu chúng sinh sai khác về sắc thân, về tướng mạo, về hình trạng, về tâm tính, về tri kiến, chúng ta đều tùy thuận tất cả, mà thực hành các sự tôn kính, cúng dường không phân biệt. Tôn trọng, tùy thuận, cúng dường, phụng sự chúng sinh chính là tôn trọng, tùy thuận, cúng dường, phụng sự chư Phật. Nếu làm cho chúng sinh vui mừng, thì chính là làm cho tất cả Như Lai hoan hỷ.
Dùng tâm đại bi mà tùy thuận chúng sinh thì có thể thành tựu pháp cúng dường Như Lai. tùy thuận chúng sinh không có nghĩa là bị chúng sinh sai xử, xui khiến, xúi giục, làm theo tất cả những gì chúng sinh đòi hỏi, những gì chúng sinh mong muốn. Trong gia đình, cũng như ngoài xã hội, tùy thuận chúng sinh không có nghĩa là nhắm mắt hùa theo, làm theo, ủng hộ những việc làm bất thiện, bất lương, lợi mình mà hại người.
Vì chúng sinh nhiều căn tính, nhưng trong ai cũng có tâm Phật nên chúng ta không bỏ ai cả, ai ai cũng có thể tu học Phật được nên chúng ta phải khéo dùng phương tiện, biết tùy thuận thì mới dẫn dắt người vào đạo, giúp đỡ nhau cùng tiến tu. Chúng ta biết tùy thuận thì Phật Pháp mới hưng thịnh được.
10. Phổ giai Hồi hướng
Nghĩa là chúng ta có bao nhiêu công đức lành từ việc tu tập thì chúng ta xin hồi hướng hết cho khắp cả Pháp giới chúng sinh, dù là chúng sinh hữu tình hay vô tình, hữu hình hay vô hình thì đều được ân chiêm (nhận) công đức, không bao giờ nghĩ rằng, phước báu này chỉ riêng mình hưởng. Vì nếu chỉ nghĩ cho riêng mình, không biết hồi hướng cho ai, đó là tâm ích kỷ, tự lợi cho bản thân.
Chúng ta có bao nhiêu phúc đức và công đức, hết thảy đều đem hồi hướng cho tất cả chúng sinh khắp trong hư không pháp giới. Nguyện cho tất cả chúng sinh thường được an lạc, không bị các bệnh khổ, xáu ác.
----------------
Tags: tiền và tỉnh thức,tienvatinh thuc,phổ hiền bồ tát,bồ tát phổ hiền,10 đại hạnh nguyện của phổ hiền bồ tát,10 hạnh nguyện của phổ hiền bồ tát,10 hạnh nguyện của bồ tát phổ hiền,phổ hiền hạnh nguyện,đại hạnh phổ hiền bồ tát và 10 hạnh nguyện lớn,10 hạnh nguyện,10 hạnh nguyện của đức phổ hiền bồ tát.,10 hạnh nguyện phổ hiền bồ tát,10 đại nguyện của bồ tát phổ hiền,hạnh nguyện của đức phổ hiền bồ tát.,hạnh nguyện phổ hiền bồ tát,10 nguyện bồ tát phổ hiền,thập nguyện của bồ tát phổ hiền
Nhận xét
Đăng nhận xét