Sự Thật thú vị Sư Thích Minh Tuệ là ai ? Thầy có phải bậc chân tu không ?


Nguồn Video từ Kênh Youtube Tiền và Tỉnh Thức !

1. Sư Thầy Thích Minh Tuệ là ai ?


Sư Thích Minh Tuệ (sinh 1981), Ông tên thật là Lê Anh Tú, sinh năm 1981 tại xã Kỳ Văn, huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh, Việt Nam. Ông là con thứ 2 trong một gia đình có 4 người con. Năm 1994, ông cùng gia đình chuyển đến xã Ia Tô, huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai sinh sống.

Tại Gia Lai, khi học hết phổ thông trung học, ông đi nghĩa vụ quân sự. Khi xuất ngũ, ông theo học Trường Trung cấp Lâm nghiệp Tây Nguyên, tốt nghiệp ông làm công tác đo đạc địa chính cho một công ty tư nhân có trụ sở tại tỉnh Phú Yên.

Năm 2015, ông xuất gia đi tu tại một ngôi chùa với pháp danh là Thích Minh Tuệ. Sau đó, ông rời khỏi chùa và tập học tu hạnh đầu đà từ năm 2017 cho đến nay.


Ông cho biết, ông không phải là tu sĩ Phật giáo, không tu tập và không là nhân sự của bất cứ ngôi chùa, cơ sở tu viện nào của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Giáo hội Phật giáo Việt Nam cũng cho biết ông không phải là tu sĩ của giáo hội này.

2. 13 Hạnh Đầu đà mà Sư Minh Tuệ tu là gì ?


“Hạnh đầu đà”, là một trong những phương pháp tu khổ hạnh mà sư Minh Tuệ đang tu học
Từ thời đức Phật, trong đó, tiêu biểu nhất là Tôn giả Ma Ha Ca Diếp - vị “Thánh Tăng đệ nhất đầu đà”.

“Đầu đà” có nghĩa là trừ bỏ phiền não trần cấu. Đầu đà là một trong những phương pháp tu khổ hạnh, cho nên cũng được gọi là “hạnh đầu đà”, cốt để tôi luyện thân tâm, bằng cách diệt trừ lòng tham trước đối với ba vấn đề thiết yếu của đời sống hằng ngày là cơm nước, áo quần và chỗ ở. Chư vị Tỳ kheo thường tu tập hạnh đầu đà, cho nên cũng còn được gọi là chư vị “đầu đà”. Trong sinh hoạt hằng ngày, người tu tập hạnh đầu đà phải chấp hành mười ba điều quy định – được gọi là 13 hạnh đầu đà như sau:

  1. Y phục làm bằng những mảnh vải rách.

  2. Chỉ dùng ba y.

  3. Khất thực mà ăn.

  4. Chỉ ăn một bữa vào giờ trưa.

  5. Không ăn quá no.

  6. Không giữ tiền bạc.

  7. Sống độc cư.

  8. Sống trong nghĩa địa.

  9. Sống dưới gốc cây.

  10. Sống ngoài trời.

  11. Không ở cố định, thường du hành.

  12. Ngồi ngủ, không nằm ngủ.

  13. Chỉ dùng bình bát.

Trong Kinh Mi Tiên Vấn Đáp có đoạn: “…Tại gia tu hành chân chính cũng đạt đạo, đạt đạo rất nhiều là khác. Nhưng một vị Sa môn, một Tỳ kheo thọ 13 pháp đầu đà là đã gần kề bên Niết bàn, lại còn lợi ích cho chúng sinh không kể xiết nữa…”. Bởi người hành giả khi thực hành các hạnh đầu đà này sẽ đạt được những đức tính cao thượng.

Hạnh đầu đà là phương tiện quý báu trợ duyên cho sự thoát ly khỏi tham dục. Tu hạnh đầu đà để thành tựu Giới, tăng trưởng Định, và viên thành Tuệ. Thế Tôn đã xác quyết, “hạnh đầu đà này được ở đời thì pháp của Ta cũng sẽ được lâu dài ở đời, thiên đạo tăng thêm, ba đường ác liền giảm, Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm đều còn ở đời”.

Rõ ràng, trong thời hiện đại hiếm có người tu nào giữ được một, hai hay trọn hết các hạnh đầu đà. Tuy vậy, công hạnh của bậc Thánh Đầu đà đệ nhất nhắc nhở chúng ta về một đời sống giản dị, thanh bần, muốn ít và biết đủ. Làm sao để trong đời sống tu hành không bị vướng mắc nhiều quá vào ăn, mặc, ở hay ngũ dục, ngũ trần nói chung. Vì giải thoát, trong ý nghĩa đơn giản nhất là không bị kẹt, bị dính mắc, thong dong với mọi thứ trong đời sống hàng ngày.

Vậy nên Sư Thích Minh Tuệ lựa chọn tu theo 13 hạnh đầu đà là một nhân hiếm quá trong thời đại ngày nay ! Chúng ta càng phải tôn trọng và chân quý hạnh của người tu như thầy !

Thông qua một số clip trên mạng, thấy sư đã và đang thực hành đúng theo Hạnh đầu đà. Khuôn mặt sư trông gầy gò, da đen nhưng rất sáng. Sư nói năng giản dị, mộc mạc, chân thành và rất khiêm nhường. Nói chuyện với ai, sư cũng xưng là “con”. Sư không thuyết giảng những gì cao siêu, huyền bí của đạo Phật. Nếu ai đó gặng hỏi về phương pháp tu tập, sư luôn nói về việc giữ giới. Điều đó rất đúng với lời Phật dạy. Bởi con đường của giải thoát là giới-định-tuệ.

Trước những cử chỉ đôi khi quá tôn kính của người đời, Sư luôn khiêm hạ đáp lễ, không bao giờ xưng là Thầy và luôn nói sư đang “tập học”.

“Vậy tại sao một vị khất sĩ đang trên con đường tu học, chưa chứng đắc nhiều lại trở thành “hiện tượng”, được quá nhiều người dân trân trọng, tôn kính như vậy ? “
Một trong những lý do căn bản nhất là bởi sư Minh Tuệ đã giữ giới, sống thiểu dục, khiêm hạ, không nhận tiền, không nhận vật thực cúng dường khi bình bát đã đầy thức ăn, lấy việc tu thân, tu tâm làm sự nghiệp cho mục đích tối thượng của đạo giác ngộ giải thoát.

Sự xuất hiện của sư Minh Tuệ giống như dòng suối trong, mát lành giữa những sông, hồ đang bị ô nhiễm nên được đông đảo dân chúng chào đón, và tôn kính.


3. Sư Minh Tuệ có phải là bậc chân tu ?


Đến hôm nay, sư Minh Tuệ được rất nhiều người biết tới và có sức lan toả rộng khắp, vượt ra cả biên giới quốc gia. Và câu chuyện về sư Minh Tuệ trở nên nóng hơn bao giờ hết, khắp mạng xã hội tràn ngập những video và hình ảnh về ông. Theo đó là rất nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau. Kính phục, ngưỡng mộ… có; chê bai, miệt thị … có. Muôn nẻo trần ai!

Nhưng may thay! Những người nghĩ tiêu cực về ông vẫn là thiểu số.

Sư Minh Tuệ tu theo pháp khổ hạnh đầu đà. Một số nhìn vào hành trạng và y áo của ông mà phỉ báng, nào là điên khùng, nào là hành xác, thiếu trí tuệ, không theo con đường Trung đạo mà Đức Phật khuyến khích. Nhưng những kẻ phỉ báng ông đâu biết rằng sư Minh Tuệ đang thực hành theo đúng chánh pháp, ông làm theo những lời dạy trong kinh nguyên thuỷ (1), đó là từ bỏ gia đình, sống đời phạm hạnh -  một lối sống trong sạch, thanh tịnh, minh triết, buông xả tất cả, thiểu dục tri túc. Người ta nhầm lẫn khổ hạnh đầu đà là cách tu khổ hạnh trong 6 năm đầu của Đức Phật đi cầu đạo. Cái khổ hạnh ấy là ép xác, hành xác khiến cơ thể phải chịu nhiều đau đớn. Như vậy, khổ hạnh đầu đà nghĩa nào đó là tiền thân của con đường Trung đạo và vẫn gần với nó nhất.

Nhiều người lại cho rằng tu hành quan trọng ở trí tuệ chứ không phải làm khổ cái thân. Nhưng họ nhầm lẫn giữa trí tuệ thế gian với trí tuệ Phật (2). Trí tuệ thế gian là khả năng nhận thức của con người, có từ di truyền và học hành. Trong khi trí tuệ Phật chỉ được khai mở khi người tu phải biết nghiêm trì giới luật. Có giới mới có định, có định mới sinh tuệ.  Cho nên Đức Phật nói ở đâu có giới hạnh ở đó có trí tuệ và ngược lại (3).

    Thực hành hạnh đầu đà cốt lõi là để chấm dứt mọi phiền não trần cấu. Vì ở pháp hành này giúp hành giả có thể hộ trì các căn, không bị chi phối bởi hoàn cảnh, dần đoạn diệt tham sân si. Đó là lí do vì sao người tu chỉ ăn ngày 1 bữa (giảm cái tham ăn), ngủ ngồi (giảm cái tham ngủ, vì nằm sẽ dễ ngủ say, li bì); mặc 3 y (thực chất là 1 bộ - nhu cầu tối thiểu, giảm sự lệ thuộc, tham ái vào y phục)…

Một số người lại chỉ trích, hạnh đầu đà sao không sống độc cư ở trong rừng mà cứ đi lang thang khắp cả nước làm gì. Thưa rằng, thời nay tìm rừng ở Việt Nam như thời Đức Phật tại thế là không thể. Và sư cũng từng có thời gian ẩn tu trên núi Sạn. Vậy tại sao ông quyết định chọn lựa cách bộ hành đi khắp đất nước? Như ông trả lời, đó là đi “tập học và rèn luyện sức khỏe”. Thực ra, nếu hiểu sâu thì ông đang thực hành đúng chánh pháp Như Lai. Vì đi như vậy là cách để ông chánh niệm thân - thọ - tâm - pháp; vì phải sống trong khổ, biết khổ,  chứng nghiệm khổ thì mới hiểu rõ nguyên nhân của khổ, khi đó khổ sẽ tự chấm dứt, chứ không phải mong thoát khổ để được lạc.

Trên bước đường của sư, nếu ông bị cám dỗ bởi vật chất, tiền bạc, sắc đẹp, tức cái tham dục đã khởi lên; hay ông cảm thấy bị phiền toái khi nhiều người vây quanh, quấy nhiễu, tức cái sân đã nổi lên… Do đó, nếu chỉ ẩn tu chưa chắc sẽ chế ngự được tâm khi đứng trước những xúc chạm của thế tục.

Lại nhiều kẻ phê phán rằng: Ông đi như thế có ích lợi gì cho xã hội? Cả xã hội ai cũng đi như ông thì lấy gì có ăn?

Đây là những câu hỏi thiển cận và có tính chất ngụy biện hoặc đề cao quá về bản thân mình.

Thế, hãy tự hỏi mỗi người chúng ta đã làm gì cho xã hội?

Ai cũng có phần đóng góp cho xã hội không nhiều thì ít, và những giá trị con người có thể tạo ra không chỉ được định lượng bằng vật chất, mà còn ở tinh thần.

    Lẽ thường, cái mà ta đã làm được, dễ nhìn thấy, là cho bản thân và gia đình. Nhưng cái mà sư Minh Tuệ đã và đang làm cho xã hội lớn lao và rõ nét hơn ta nhiều, đó là:

Sư đã giúp nhiều người thấy được hình ảnh của Phật giáo nguyên thuỷ và bóng dáng tu hành - cuộc đời Đức Phật.

Sư như một tấm gương chiếu yêu có thể làm lộ ra chân tướng của một số “xàm tăng”, “chuyển khoản tăng”, “hiến kế tăng”…- Theo lời bình luận của một số khán giả

Sư đã khiến nhiều người đang mê lạc tà đạo thức tỉnh trở về với ánh sáng của chánh pháp.

Sư đã khiến nhiều người vẫn giữ được niềm tin vào Phật giáo, và ngay cả những tín đồ tôn giáo khác cũng có cái nhìn thiện cảm và mến mộ đạo Phật.

Sư đã khiến nhiều người tự soi xét lại mình mà giảm bớt tham sân si trong cuộc sống. Thậm chí không ít người còn buông bỏ tất cả mà xuất gia theo bươc chân sư.

Và nghĩa nào đó sư đã khiến cho tình người gần gũi hơn, xã hội hoà ái hơn.

Vậy, nếu cả xã hội mà cứ làm được như sư thì tốt biết bao. Khi đó, tôi tin chắc, xã hội không chỉ có ăn, có mặc mà còn có một đời sống an lạc, hạnh phúc hơn rất nhiều. Nhưng tiếc thay, làm như sư sẽ không được mấy người đâu!

Lại có người thắc mắc rằng sao thầy tu mà xưng “con”, không xưng “thầy” với người khác?

Thứ nhất, ông đã chọn con đường buông xả, không còn ràng buộc việc tu tập ở chùa cũ, cũng như không nhận mình “là sư là thầy ai cả” cốt để khỏi ảnh hưởng đến bất cứ ai và không bị phiền hà về chuyện giấy tờ tu sĩ…

Thứ hai, Sư Minh Tuệ xưng “con” với tất cả đại chúng, hiểu sâu hơn, đó là ông đang thực hành phá chấp ngã, tức ông không quan niệm mình là “thầy”, bỏ qua cái tôi mà khiêm hạ với mọi người. Rõ ràng đây chính là tinh thần vô ngã.

    Hiện tại trên bước đường tu, sư đến đâu dân chúng cũng kéo theo hàng trăm đến hàng ngàn người, và  trong đó có không ít youtuber, titoker, facebooker… Điều đó khiến nhiều người lo lắng, vì vấn đề an ninh hay sự phiền nhiễu cho việc tu tập của sư.

Theo tôi, chúng ta chớ vội mà trách cứ, chửi bới những người làm các kênh mạng xã hội. Hãy nhìn vào mặt tích cực của họ, vì nếu không có họ thì làm sao tạo ra những hiệu ứng tốt đẹp lan tỏa về một bậc chân tu. Và với thời đại này, cũng cần nhìn nhận rằng việc hoằng dương chánh pháp, phổ độ chúng sinh, chia sẻ những điều tốt đẹp sẽ rất hữu hiệu khi có sự hỗ trợ của truyền thông, và mạng xã hội. Nếu không thì làm sao phật tử ở Việt Nam biết đến những bài giảng của sư Pháp Hòa, hay Tịnh Không và của những bậc cao tăng khác nữa.

Mặt khác, sự tụ tập của họ cũng là một phép thử để sư Minh Tuệ thực hành chế ngự tâm. Khi được nhiều người chú ý, sùng bái, vái lạy, nếu sư khởi lên cái tâm - mình là quan trọng, là trung tâm, là ngôi sao, thì ngay lập tức sư rơi vào ngã chấp, ngã mạn (tâm tham ái, cầu danh); nếu họ vây quanh khiến sư không có thời gian nghỉ ngơi sinh hoạt mà khó chịu, nổi giận, tức tâm sân đã sinh khởi. Cho nên những tình huống này là một phép thử cực đại trên bước đường trì giới và chánh niệm. Theo quan sát, dù đi bộ cực khổ đến đâu nhưng lúc nào trên mặt sư cũng an nhiên và luôn nở nụ cười. 

Hay nhiều người dân tỏ lòng thương xót cho sư, sì sụp khóc lóc, vì chứng kiến cảnh sư đầu trần chân đất dãi nắng dầm mưa… Sự rung cảm này có thể hiểu được nhưng đó là chúng ta lấy suy nghĩ và đôi mắt của người thế tục. Lựa chọn con đường khổ hạnh ấy khiến sư cảm thấy được lạc thọ nội tâm, và những trở ngại đó mới giúp sư đến gần với giác ngộ.

Lại có người lo cho sư vì những tai hoạ có thể ập đến bởi những thế lực đen tối. Xin cũng đừng lo, khi đã chọn con đường này thì phải là một bậc đại dũng. Chả phải sư từng nói “còn cho con sống thì con tu tiếp” đó sao? Đây là tinh thần vô uý khi sư đã thấu triệt vô thường, vô ngã. Điểu mà ta nên quan tâm là liệu sư có thực sự đã đạt được tâm thái đó hay chưa. Nếu đã đạt thì niết bàn cũng không còn xa nữa. Vậy tất cả nên hoan hỉ.

Tất nhiên, khi tán thán về pháp hành của sư Minh Tuệ thì không đồng nghĩa với việc hạ thấp các pháp tu khác ở những bậc chân tu trên đất nước này. Mỗi người một căn cơ, một hạnh nguyện khác nhau nên không thể ai ai cũng phải giống nhau. Mỗi cá nhân có mặt ở thế gian này là để hoàn thành một “sứ mệnh” của riêng mình.

Nếu tiêu chuẩn của một người tu là giới hạnh thì rõ ràng người hành pháp sẽ cao hơn người hiểu pháp. Và thực hành được hạnh đầu đà là một công hạnh lớn, xưa nay không được mấy ai. Vậy, tán thán, kính ngưỡng giới hạnh là việc nên làm nhưng không nên sùng bái, suy tôn, thánh hoá sư Minh Tuệ ngay lúc này, vì điều đó sẽ khiến rơi vào tà kiến, ngoại đạo, đi ngược lại với tinh thần Phật giáo.

#tienvatinhthuc #suthichminhtue #suminhtue #thaythichminhtue #suthaythichminhtue #suthichminhtuelaai #nhasuthichminhtue #suthaythichminhtuecophaibacchantukhong

----------------
Tags: tiền và tỉnh thức,tienvatinhthuc,thích minh tuệ,sư thích minh tuệ,thầy thích minh tuệ mới nhất,thầy minh tuệ,sư minh tuệ,sư thầy thích minh tuệ,thích minh tuệ mới nhất,thầy thích minh tuệ,thích minh tuệ đi bộ,sư thích minh tuệ đi bộ,hiện tượng sư thích minh tuệ,thich minh tue,minh tuệ mới nhất,minh tuệ,sư minh tuệ mới nhất,#thích minh tuệ,vtc thích minh tuệ,thích minh tuệ là ai,thích minh tuệ live,thích minh tuệ là ai?,nhà sư thích minh tuệ,sư thích minh tuệ là ai,sư thầy thích minh tuệ có phải bậc chân tu không,sự thật thầy minh tuệ có phải bậc chân tu,nhà sư thích minh tuệ,sư thích minh tuệ có phải là bậc chân tu thật hay không?bố mẹ thích minh tuệ,thích minh tuệ bị đánh,thích minh tuệ mới nhất,thích minh tuệ trực tiếp,13 pháp hạnh đầu đà là gì


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

(Bản có chữ, dễ đọc) || Kinh từ bi sám hối - Lời khấn nguyện hàng ngày -...

Chân ngôn Thần chú Phật Thích Ca Mâu Ni - Om Muni Muni Maha Muniye Soha

Phật mẫu chuẩn đề thần chú - Ý nghĩa câu tâm chú: Om Cale Cule Cundi soha.